Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai phát biểu tại Hội nghị quán triệt Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 10/02/2022 của Bộ Chính trị
Sáng ngày 15/4/2022, Trung ương đã triển khai
Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 10/02/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Chủ trì hội nghị có các đồng chí Tổng Bí thư,
Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ. Hội nghị thực hiện theo
hình thức trực tuyến, được truyền hình trực tiếp từ điểm cầu Văn phòng Trung
ương Đảng với các ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương. Tỉnh Lào Cai tổ
chức tiếp thu trực tuyến cho các điểm cầu các cấp tỉnh, huyện, xã và trực tiếp
qua kênh truyền hình THLC của Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Lào Cai.
Điểm cầu Trung tâm Hội nghị tỉnh Lào Cai
Tại hội nghị, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai
đã có tham luận quan trọng trực tiếp tại điểm cầu trung tâm Văn phòng Trung
ương Đảng. Sau đây Ban biên tập xin được giới thiệu nội dung chính trong bài
phát biểu của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai.
"Nhiệm vụ và giải pháp phát triển tỉnh Lào Cai trở thành trung tâm kết nối giao
thương kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN với vùng Tây Nam - Trung Quốc"
Nghị quyết 11-NQ/TW được ban hành thể hiện sự quan tâm
đặc biệt của Trung ương Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư đối với vùng - nơi được đánh giá là “vùng trũng”, là “lõi nghèo” của cả
nước, điều đó được thể hiện qua các điểm sau:
Thứ nhất, Nghị quyết 11-NQ/TW ra đời là sự kế thừa và phát triển
Nghị quyết số 37/NQ-TW nên tiếp tục đáp ứng
được niềm tin, nguyện vọng chính đáng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các
dân tộc về những chủ trương, định hướng của Đảng đối với vùng Trung du và miền
núi Bắc bộ. Nghị quyết đã phản
ánh bức tranh toàn diện, chân thực những thành tựu, kết quả sau 17 năm triển khai Nghị quyết
37-NQ/TW; khẳng định sự thay đổi tương đối toàn diện về kinh tế - xã hội, đặc
biệt là đã kiến tạo không gian phát triển hài hòa, đồng bộ giữa các vùng, miền;
thể hiện tầm nhìn bao quát và chiến lược của Đảng ta. Đồng thời, Nghị quyết
cũng đã thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và đề ra mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp trong giai đoạn mới.
Thứ hai, Nghị quyết 11-NQ/TW được xây dựng
dựa trên sự chắt lọc, phân tích công phu, đa chiều từ thực tiễn và những luận cứ
khoa học. Từ đó, đã đưa ra các định hướng vừa mang tầm nhìn chiến lược, vừa phù hợp với điều
kiện của vùng như: Quan điểm, mục tiêu xác định “Vùng
có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội; môi trường sinh
thái; quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước...”
và “là vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện, trên cơ sở
tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng liên kết nội vùng và liên vùng...”. Do đó, Nghị quyết sẽ là kim chỉ nam trong quá trình xây dựng và phát triển các địa phương trong vùng trong
những năm tới.
Sau khi tái lập năm 1991, Lào Cai là một trong những tỉnh
nghèo nhất cả nước, bị tàn phá bởi chiến tranh biên giới. Nhưng được sự quan tâm đặc biệt,
thường xuyên của Trung ương Đảng, cùng với sự quyết tâm của cả hệ thống chính
trị và nhân dân các dân tộc trên địa bàn; Lào
Cai đã vươn mình trở thành tỉnh phát triển khá của vùng. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong 30 năm đạt gần
10%/năm; văn hóa - xã hội phát triển toàn diện; tốc độ giảm nghèo nhanh; đời sống nhân dân được nâng lên
rõ rệt; bộ mặt từ đô thị đến nông thôn có nhiều đổi mới. Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị được thực
hiện toàn diện, có hiệu quả. Quốc phòng,
an ninh luôn được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng được tăng cường, mở rộng.
Bên cạnh
những kết quả đạt được, tỉnh
Lào Cai cũng nhận thức rõ những khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển
đó là: Quy mô nền kinh
tế còn nhỏ; hoạt động của nhiều ngành, lĩnh vực chưa gắn với chuỗi giá trị; Công
nghệ chậm đổi mới; Năng suất lao động thấp; Hoạt động xuất nhập khẩu chưa bền vững; Dân
cư phân tán, địa hình chia cắt mạnh trong khi hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển.
Để trở thành trung tâm kết nối
giao thương kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN với vùng Tây Nam Trung Quốc theo tinh thần của Nghị Quyết 11-NQ/TW, tỉnh Lào Cai đã chủ động xây dựng các Nghị quyết, Đề án,
Quy hoạch phát triển từng ngành, lĩnh vực trong đó xác định những nhiệm vụ và giải
pháp trọng tâm, cụ thể như
sau:
Thứ nhất, điều
chỉnh hợp lý chiến lược các ngành, lĩnh vực kinh tế; ưu tiên nguồn lực cho phát triển xanh gắn với
Chiến lược quốc gia về tăng trường xanh: Tỉnh Lào Cai nằm tại vị trí đầu nguồn sông Hồng, có tỷ lệ che phủ rừng trên
55% với 01 Vườn Quốc gia, 02 Khu bảo tồn thiên nhiên giữ vai trò phòng hộ đầu
nguồn xung yếu của lưu vực sông Hồng và sông Đà. Vì vậy, để phát triển "Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ là vùng phát triển
xanh, bền vững và toàn diện”,
tỉnh Lào Cai xác định phải điều chỉnh
hợp lý chiến lược phát triển từng ngành kinh tế với mục tiêu xuyên suốt là: “Giữ
rừng, giữ nước, giữ môi trường, giữ nhân dân, giữ biên giới” để vừa ổn định
nguồn sinh kế cho đồng bào, vừa góp phần phát triển bền vững cho cả vùng; đúng với
định hướng của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại bài viết
nhân dịp kỷ niệm 131 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 -19/5/2021):
"Chúng ta cần sự phát triển bền vững,
hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện
tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng
vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường".
Thứ
hai, xây dựng Lào Cai thành một trong những trung tâm Logistic quan trọng của cả
nước: Xây dựng Khu Kinh tế cửa khẩu Lào Cai có mạng lưới hạ tầng, dịch
vụ logistic đồng bộ, hiện đại, đa lĩnh vực; có năng lực tập trung, điều phối hàng hoá giữa
các nước ASEAN với thị trường Tây Nam - Trung Quốc trong đó "Cao tốc Hà Nội - Lào Cai là trục kết nối; Cảng hàng không Sa Pa là lực đẩy phát triển; Tuyến đường
sắt Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai là động lực tăng trưởng". Dự kiến đến năm
2030, tổng kim ngạch XNK các loại hình đạt 50 tỷ Đô la.
Thứ
ba, xây dựng Lào Cai trở thành hạt nhân du
lịch của vùng và cả nước: Khai thác hiệu quả Cảng hàng không Sa Pa gắn với
xây dựng đồng bộ trụ cột là Khu du lịch Quốc gia Sa Pa, Lào Cai trở thành cầu nối du lịch quan trọng; thực hiện
liên kết, điều tiết khách quốc tế đến vùng và cả nước; bảo đảm đủ năng lực đón 15 đến 20 triệu du khách vào năm 2030.
Thứ tư, phát triển chế biến sâu ngành công nghiệp khai khoáng, bảo đảm cung cấp ổn định nguyên liệu cho chuỗi
sản xuất công nghiệp trong nước nhất là các loại khoáng sản có trữ lượng lớn của
vùng và cả nước (Apatit, Đồng, Sắt); nghiên cứu phương án khai thác,
chế biến hiệu quả đất hiếm. Phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp đến năm 2030 đạt
trên 100.000 tỷ đồng, gấp từ 2,5
đến 3 lần so với hiện nay.
Thứ năm, phát triển kết cấu hạ tầng,
đột phá là hạ tầng giao thông kết nối liên hoàn giữa các tỉnh trong vùng, giữa vùng với cả nước và Quốc tế và
hạ tầng chuyển đổi số.
Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động
đối ngoại, phát triển kinh tế gắn với vai trò "phên dậu'' quốc gia: Củng cố, đẩy mạnh các hoạt động kết nối - giao lưu - hợp
tác một cách sáng tạo, linh hoạt giữa các địa phương trong vùng với vùng Tây
Nam - Trung Quốc; đẩy mạnh giao thương kinh tế giữa ASEAN và Trung Quốc qua các
cửa khẩu của Lào Cai; từng bước xây dựng Lào Cai thành đầu mối kết nối tin cậy của
tuyến hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Để hoàn thành thắng lợi Nghị Quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, bên cạnh sự nỗ lực, cố gắng
không ngừng của các địa phương trong vùng, tỉnh Lào Cai đề xuất với Trung ương quan tâm, chỉ đạo thực
hiện một số nhiệm vụ sau:
1. Đề nghị: Chỉ đạo sớm triển khai xây dựng đề án phát triển một số
cực tăng trưởng, trung tâm kinh tế vùng như: Lào Cai, Thái Nguyên, Bắc Giang, Sơn
La, Lạng Sơn.
2. Xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách đặc thù thúc đẩy liên kết - phát
triển vùng: Đề nghị sớm ban hành quy định, cơ chế liên kết nội vùng,
liên vùng; quy hoạch không gian phát triển và xác định các lĩnh vực trọng tâm
và đột phá để ưu tiên nguồn lực; trong đó tăng cường phân cấp, phân quyền, tăng
tính chủ động cho các địa phương triển khai ngay các nhiệm vụ được nêu tại Nghị
quyết.
3. Trong giai đoạn 2021-2025, ưu tiên nguồn lực đầu tư kết nối giao thông vùng: (i) Sớm triển khai nghiên cứu xây dựng tuyến đường sắt điện khí hoá Lào Cai
- Hà Nội - Hải Phòng; (ii) Hệ thống cao tốc nối vùng Thủ đô với các tỉnh trong
vùng; (iii) Xây dựng quy hoạch tổng thể không gian phát triển, hạ tầng kết
nối dọc sông Hồng (hiện nay, Lào Cai đã hoàn thành quy hoạch chung 128km dọc
sông Hồng đoạn qua địa phận tỉnh).
4. Xây dựng cơ chế,
quy định đặc thù cho các tỉnh trong vùng sớm thực hiện các chương trình, dự án
tham gia cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon; vận hành thí điểm thị trường
các-bon để phát huy ngay tiềm
năng, lợi thế của một vùng phát triển xanh, bền vững (do theo lộ trình tại Nghị
định 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ, đến hết năm 2025 mới thành lập và tổ chức vận
hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ các-bon).
Với sự lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ
trợ tích cực của Trung ương; sự cố gắng, nỗ lực của các địa phương trong vùng, tin
tưởng rằng Nghị quyết 11-NQ/TW sẽ nhanh chóng đi vào cuộc sống; các tỉnh trong
vùng sẽ sớm có điều kiện vươn lên, thu hẹp khoảng cách với các vùng miền khác của
cả nước; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao; quốc phòng,
an ninh được đảm bảo vững chắc; tổ chức đảng, hệ thống chính trị và khối đại
đoàn kết ngày càng vững mạnh; đúng với mong ước sinh thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi
Người dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III năm 1960: "Đảng và Nhà nước cần phải làm
cho miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao và vùng biên giới tiến kịp vùng nội địa,
các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc Kinh, giúp đỡ các dân tộc phát huy tinh
thần cách mạng và năng lực to lớn của mình, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ để tiến
lên chủ nghĩa xã hội ".
Cao Bá Quý – BQL Khu kinh tế